CÁC BÀI HỌC PHẬT

Kinh điển Phật Giáo

Các bài giảng về đạo lý của Phật trong suốt 45 năm hoằng hóa của Ngài đã không được ghi lại bằng văn tự, từ thời Phật còn sống cho đến nhiều thế kỷ sau khi Ngài nhập diệt. Thời đó, Ấn Độ chưa có chữ viết. Thực tế, kinh Vệ Đà của Bà La Môn đã được ghi chép bằng chữ Phạn từ trước thời đại của Phật.

Các đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trước đó thuộc phái San Xa Dạ trong Lục Sư ngoại đạo. Mỗi người họ có khoảng 100 đệ tử. Cũng có đại đệ tử như Đại Ca Diếp, người có nguồn gốc từ dòng dõi Bà La Môn. Ngoài ra, còn các vị vương tử khác thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi như A Nan, A Na Luật, Nan Đà, Ma Ha Nam… Những người này đã hiểu về chữ nghĩa Sanscrit, nhưng những kinh điển không được ghi chép do nhiều phái theo Tạng Luật đã ghi lại một sự kiện sau đây: “Có hai anh em Bà La Môn muốn xuất gia theo Phật. Họ muốn tụng đọc những lời Ngài dạy theo kiểu tụng đọc kinh điển Vệ Đà mà họ đã quen thuộc, sử dụng tiếng Sanscrit và sắp xếp câu văn như cách hành văn trong kinh điển ấy.” Phật đã dạy rằng trong đạo, không cần văn chương hoa mỹ, chỉ cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Lời văn cần phải đơn giản, để người nghe hiểu được.

Điều này giải thích tại sao kinh điển không được ghi chép từ thời Phật còn sống. Trong cuộc hội thảo đầu tiên, Đại Ca Diếp đã đưa ra ý kiến: “Nếu chúng ta xem học pháp là việc loại bỏ những giới nhỏ nhặt, thì người khác sẽ nói: Bốn giới Ba La Đề Đề Xá Ni cũng có thể loại bỏ. Nếu chúng ta xem bốn giới Ba La Đề Đề Xá Ni là những giới nhỏ nhặt, thì người khác sẽ nói: Các giới Ba Dật Đề cũng là giới nhỏ nhặt… Không thể khẳng định, giới nào là giới nhỏ nhặt để loại bỏ một cách tùy tiện.” Do đó, ông khẳng định rằng: “Những gì không do Phật chế định thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta cần kính cẩn học tập những gì Phật đã dạy.” Quan điểm này đã được đại hội chấp thuận, và Tăng đoàn đã tiếp tục bảo tồn và hành trì đúng theo lời dạy của Phật. Chính sự bảo thủ này đã kéo dài qua nhiều thế kỷ, khiến cho kinh điển vẫn được truyền đạt bằng lời nói chứ không ghi chép lại.

Kinh Điển Phật Giáo - Giáo Lý Căn Bản
Kinh Điển Phật Giáo – Giáo Lý Căn Bản

Qua lịch sử của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng việc kiết tập lại các bộ kinh đã diễn ra trong nhiều giai đoạn khác nhau. Lần kiết tập thứ hai diễn ra khoảng 100 năm sau khi Phật nhập niết bàn, tương đương với thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Tại lần kiết tập này, vấn đề về giới luật đã dẫn đến sự phân chia của Phật giáo thành Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ.

Vào thời kỳ vua A Dục, sau khoảng 236 năm từ khi Phật nhập niết bàn, tức năm 250 trước Công nguyên, một sự kiện quan trọng đã xảy ra khi nhà vua hộ trì đã tổ chức kiết tập lần nữa. Tại lần kiết tập này, bộ “Thuyết sự” được sáng tác, và sau này được coi là cơ sở của Tam Tạng Kinh Điển. Lần kiết tập thứ tư diễn ra dưới triều đại Ca Nhị Sắc Ca, khoảng 700 năm sau khi Phật nhập niết bàn, tương đương năm 140 sau Công nguyên. Tại lần kiết tập này, hội nghị đã sáng tác các bộ “Luận Nghị” (Upadesa) để giải thích Kinh, “Tỳ Bà Sa” (Vibhasa) để giải thích Luật, và “A Tỳ Đạt Ma” (Abhidarma) để giải thích Luận.

Tất cả các lần kiết tập đều không dẫn đến việc tổ chức ghi chép các kinh điển. Tuy nhiên, sau khoảng 236 năm từ khi Phật nhập niết bàn, dưới triều đại vua A Dục, một đoàn truyền giáo đã được phái ra Tích Lan để truyền bá Phật giáo. Đoàn này đã truyền khẩu Kinh và Luật tại vương quốc Tích Lan bằng tiếng Ma Kiệt Đà, ngôn ngữ của khu vực này. Điều này đã dẫn đến việc ghi chép kinh điển bằng tiếng Pali, dựa trên ngôn ngữ Ma Kiệt Đà, vào thời kỳ triều vua Vô Úy Vương.

Sau này, trong thế kỷ thứ V, ngài Phật Âm (Buddhaghoso), người Trung Ấn, đến Tích Lan và sáng tác bộ Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga), sử dụng tiếng Pali để chú thích các kinh điển. Như vậy, Phật giáo Tích Lan sử dụng kinh điển Pali, còn Phật giáo Đại Thừa sử dụng kinh điển chữ Sanskrit. Chữ Sanskrit đã tồn tại trước thời của Phật, và dường như việc ghi chép các kinh điển bằng chữ Sanskrit bắt đầu từ lần kiết tập thứ tư. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nội dung của các bản ghi chép này có thể dựa trên ngôn ngữ Ma Kiệt Đà, hoặc có thể đã tham khảo ngôn ngữ Pali trong quá trình ghi chép.

Dưới đây là bảng tóm tắt về các kinh điển chính trong Phật giáo Nam Tông:

I. Luật Tạng

Bao gồm các quy tắc về giới luật, nghi lễ và hành xử cho nam và nữ tu sĩ. Được chia thành 5 bộ:

  • Ba La Di
  • Ba Dật Đề
  • Đại Phẩm
  • Tiểu Phẩm
  • Toát yếu

II. Kinh Tạng

Chứa các lời dạy của Phật và đệ tử Phật. Được chia thành 5 bộ gọi là Ngũ Bộ Kinh:

  • Trường Bộ
  • Trung Bộ
  • Tương Ưng Bộ
  • Tăng Chi Bộ
  • Tiểu Bộ

Tiểu Bộ không chỉ đơn thuần là bộ kinh nhỏ hoặc ngắn, mà thực chất là tập hợp của 15 bộ sách nhỏ:

  • Tiểu Tụng
  • Pháp Cú
  • Phật Tự Thuyết
  • Như Thị Ngữ
  • Kinh Tập
  • Thiên Cung Sự
  • Ngạ Quỹ Sự
  • Trưởng Lão Tăng Kệ
  • Bổn Sanh
  • Nghĩa Thích
  • Vô Ngại Giải Đạo
  • Thí dụ
  • Phật sử
  • Sở hành tạng

III. Luận Tạng (Thắng Pháp Tạng hoặc Vi Diệu Pháp)

Nội dung của Luận Tạng là việc giải thích lời dạy của Phật và hệ thống hóa chúng thành cơ sở triết học. Bao gồm 7 quyển:

  • Pháp Tụ
  • Phân Biệt
  • Giới Thuyết
  • Nhân Thi Thiết
  • Biện Giải
  • Song Luận
  • Nhân duyên Thuyết
Xem thêm:  Giáo lý Phật giáo cơ bản: tứ diệu đế hay tứ thánh đế

Ngoài ra, còn có một số tác phẩm quan trọng khác được coi như thánh điển trong Phật giáo Nam Tông, và chúng đã được truyền lại đến ngày nay:

  • Đảo sử
  • Đại Sử
  • Tiểu Sử
  • Mi Lan Đà Vấn Đạo (Kinh Na Tiên)
  • Thanh Tịnh Đạo Luận
  • Thắng Pháp Tập Yếu Luận

Dưới đây là danh sách tóm tắt về một số kinh điển trong Phật giáo Bắc Tông, trong đó có các bộ kinh và tác phẩm khác nhau:

I. Tạng Luật

  • Thập Tụng Luật
  • Tứ Phận Luật
  • Ma Ha Tăng Kỳ Luật
  • Ngũ Phận Luật
  • Tỳ Nại Da

II. Tạng Kinh

  • Trường A Hàm
  • Trung A Hàm
  • Tạp A Hàm
  • Tăng Nhứt A Hàm

III. Tạng A Tỳ Đàm

Bao gồm sáu tác phẩm của Ca Đa Diễn Ni Tử:

  • Tập Dị Môn Túc Luận
  • Pháp Uẩn Túc Luận
  • Thi Thiết Túc Luận của Ca Chiên Diên
  • Thức Thân Luận của Đề Bà Thiết Ma
  • Phẩm Loại Túc Luận của Thế Hữu
  • Giới Thân Túc Luận cũng của Thế Hữu

IV. Tạng Khuất Già Đà (có thể xếp chung với Tạng Kinh)

  • Khế Kinh
  • Ứng tụng
  • Cô khởi
  • Nhân duyên
  • Bản sự
  • Bản Sanh
  • Vị Tăng Hữu
  • Thí dụ
  • Luận Nghị
  • Tự Thuyết
  • Phương quảng hay Tỳ Phật Lược
  • Thọ Ký

V. Bát Nhã Bộ

  • Đại Bát Nhã Sơ Phận
  • Đại Phẩm Bát Nhã
  • Tiểu Phẩm Bát Nhã
  • Văn Thù Bát Nhã
  • Thắng Thiên Vương Bát Nhã
  • Lý Thú Bát Nhã
  • Kim Cương Bát Nhã
  • Bát Nhã Tâm Kinh

VI. Hoa Nghiêm Bộ

  • Thập Địa Phẩm
  • Hành Nguyện Phẩm (Tứ Thập Hoa Nghiêm)
  • Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán

VII. Phương Quảng Bộ

  • Pháp Hoa Kinh
  • A Di Đà Kinh
  • Bi Hoa Kinh
  • Kim Quang Minh Kinh
  • Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh
  • Soạn Tập Bách Duyên Kinh
  • Phật Bản Hạnh Tập Kinh Dị Bản
  • Duy Ma Kinh

Và nhiều kinh điển khác đã được sáng tác trong thời đại Long Thọ, khoảng thế kỷ thứ III, như Thắng Man Kinh, Đại Niết Bàn Kinh, Giải Thâm Mật Kinh, Kinh Lăng Già, và nhiều tác phẩm khác của thời kỳ đó.

VIII. Bảo Tích Bộ

  • Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Kinh
  • Đại Ca Diếp Hội.
  • Vô Lượng Thọ Hội (tức Vô Lượng Thọ Kinh)

IX. Bí Mật Bộ

  • Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà La Ni
  • Tán Dương Thánh Đức Đa La Bồ Tát Nhất Bách Bát Danh Kinh
  • Kim Cương Thủ Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiết Bộ Đa Đại Giáo Vương Kinh
  • Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni Kinh
  • Thánh Cứu Độ Phật Mẫu Nhị Thật Nhất Chủng Lễ Tán Kinh
  • Thánh Diệu Mẫu Đà La Ni Kinh
  • Đại Bi Không Trí Kim Cương Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh
  • Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh
  • Phật Mẫu Đại Khổng Tước Vương Kinh
  • Đại Văn Thỉnh Vũ Kinh
  • Đại Tùy Cầu Đà La Ni Kinh
  • Đại Bạch Tản Cái Đà La Ni Kinh
  • Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Độ Kinh
  • Đại Hàn Lâm Thánh Nan Noa Đà La Ni Kinh
  • Đại Hộ Minh Đà La Ni Kinh
  • Ma Lị Chi Thiên Đà La Ni Kinh
  • Văn Thù Sở Thuyết Tối Thắng Danh Nghĩa Kinh
  • Bát Lan Sa Phược La Đà La Ni Kinh
  • Nhất Thiết Như Lai Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương Kinh
  • Nhất Thiết Như Lai Ô Cầm Nhị Sa Tối Thắng Tổng Trì Kinh
  • Hoại Tướng Kim Cương Đà La Ni Kinh
  • Trì Thế Đà La Ni Kinh
  • Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh

X. Sáng tác của các Thánh Tăng khác

Na Tiên (xuất hiện cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên):

  •    Na Tiên Tỳ Kheo Kinh

Thế Hữu (đầu thế kỷ thứ II)

  •    Di Bộ Tôn Luận
  •    Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập Luận

Mã Minh (khoảng hậu bán thế kỷ thứ II)

  •    Phật Sở Hạnh Tán
  •    Đại Trang Nghiêm Luận Kinh
  •    Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh
  •    Lục Thú Luân Hồi Kinh
  •    Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng
  •    Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh
  •    Đại Tôn Địa Huyền Văn Bản Luận
  •    Đại Thừa Khởi Tín Luận

Long Thọ (đầu thế kỷ thứ III, người Nam Ấn)

  • Trung Quán Luận
  • Thập Nhị Môn Luận
  • Đại Trí Độ Luận
  • Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
  • Thập Bát Không Luận
  • Đại Thừa Phá Hữu Luận
  • Bồ Đề Tư Lương Luận
  • Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận
  • Hối Tránh Luận
  • Phương Tiện Tâm Luận
  • Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ
  • Tán Pháp Giới Tụng
  • Quảng Đại Phát Nguyện Tụng

Đề Bà (còn gọi là Thánh Thiên, cuối thế kỷ thứ III, người Nam Ấn)

  •    Bách Luận
  •    Bách Tự Luận
  •    Quảng Bách Luận

La Hầu La Bạt Đà La (Ràhula-bhadra) (cuối thế kỷ thứ III, người Trung Ấn):

  •    (Sách của ngài chú thích Trung Quán Luận của Long Thọ nhưng đã thất truyền)

Ngài Di Lặc (do Vô Trước ghi chép lại):

  •    Du Già Sư Địa Luận
  •    Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
  •    Thập Địa Kinh Luận
  •    Trung Biên Phân Biệt Luận

Vô Trước (cuối thế kỷ thứ IV, thuộc nước Gandhàra, Bắc Ấn)

  •    Hoa Nghiêm Kinh
  •    Hiển Dương Thánh Giáo Luận
  •    Nhiếp Đại Thừa Luận
  •    Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận
  •    Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Luận
  •    Thuận Trung Luận

Thế Thân (cuối thế kỷ thứ IV):

  •    A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Hữu bộ)
  •    A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng (Hữu bộ)
  •    Duy Thức Tam Thập Luận Tụng
  •    Duy Thức Nhị Thập Luận
  •    Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
  •    Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận
  •    Phật Tính Luận
  •    Nhiếp Đại Thừa Luận Thích
  •    Thập Địa Kinh Luận
  •    Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận
  •    Lục Môn Giáo Thụ Tập Định Luận

X. Sáng tác của các Thánh Tăng khác

Na Tiên (xuất hiện cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên):

  •    Na Tiên Tỳ Kheo Kinh

Thế Hữu (đầu thế kỷ thứ II):

  •    Di Bộ Tôn Luận
  •    Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập Luận

Mã Minh (khoảng hậu bán thế kỷ thứ II):

  •    Phật Sở Hạnh Tán
  •    Đại Trang Nghiêm Luận Kinh
  •    Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo Kinh
  •    Lục Thú Luân Hồi Kinh
  •    Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng
  •    Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh
  •    Đại Tôn Địa Huyền Văn Bản Luận
  •    Đại Thừa Khởi Tín Luận

Long Thọ (đầu thế kỷ thứ III, người Nam Ấn):

  •    Trung Quán Luận
  •    Thập Nhị Môn Luận
  •    Đại Trí Độ Luận
  •    Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
  •    Thập Bát Không Luận
  •    Đại Thừa Phá Hữu Luận
  •    Bồ Đề Tư Lương Luận
  •    Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận
  •    Hối Tránh Luận
  •    Phương Tiện Tâm Luận
  •    Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ
  •    Tán Pháp Giới Tụng
  •    Quảng Đại Phát Nguyện Tụng

Đề Bà (còn gọi là Thánh Thiên, cuối thế kỷ thứ III, người Nam Ấn):

  •    Bách Luận
  •    Bách Tự Luận
  •    Quảng Bách Luận

La Hầu La Bạt Đà La (Ràhula-bhadra) (cuối thế kỷ thứ III, người Trung Ấn):

   (Sách của ngài chú thích Trung Quán Luận của Long Thọ nhưng đã thất truyền)

Xem thêm:  99+ Những câu nói hay của Phật khiến chúng ta phải suy ngẫm

Ngài Di Lặc (do Vô Trước ghi chép lại):

  •    Du Già Sư Địa Luận
  •    Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
  •    Thập Địa Kinh Luận
  •    Trung Biên Phân Biệt Luận

Vô Trước (cuối thế kỷ thứ IV, thuộc nước Gandhàra, Bắc Ấn):

  •    Hoa Nghiêm Kinh
  •    Hiển Dương Thánh Giáo Luận
  •    Nhiếp Đại Thừa Luận
  •    Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận
  •    Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Luận
  •    Thuận Trung Luận

Thế Thân (cuối thế kỷ thứ IV):

  •    A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Hữu bộ)
  •    A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng (Hữu bộ)
  •    Duy Thức Tam Thập Luận Tụng
  •    Duy Thức Nhị Thập Luận
  •    Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
  •    Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận
  •    Phật Tính Luận
  •    Nhiếp Đại Thừa Luận Thích
  •    Thập Địa Kinh Luận
  •    Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá
  •    Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận
  •    Lục Môn Giáo Thụ Tập Định Luận

Thanh Biện (tiền bán thế kỷ thứ VI, người Trung Ấn):

  •  Đại Thừa Chưởng Trân Luận
  •  Bát Nhã Đăng Luận Thích

Hộ Pháp (thế kỷ thứ VII, người nước Dràvida):

  •  Thành Duy Thức Luận
  •  Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận
  •  Quán Sở Duyên Duyên Luận Thích
  •  Đại Thừa Quảng Bách Luận

Khi nhắc đến Kinh điển Nam Tông, thường người ta nghĩ đến kinh điển Pali. Không chỉ được duy trì và lưu truyền trong các nước Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchea, mà kinh điển Pali còn lan truyền sang các nước Tây phương trong suốt hơn 100 năm qua. Điều này được thực hiện thông qua Hiệp Hội Thánh Điển Pali (Pàli Text Society), được tiến sĩ T.W. Rhys Davids (1843-1922) người Anh khởi xướng thành lập từ năm 1881, có trụ sở đặt tại Luân Đôn. Cho đến ngày nay, Hiệp Hội vẫn tiếp tục hoạt động và đã dịch hơn 100 quyển kinh điển Pali ra Anh ngữ.

Kinh Điển Phật Giáo - Giáo Lý Căn Bản
Kinh Điển Phật Giáo – Giáo Lý Căn Bản

Về kinh điển Bắc Tông, các kinh điển Sanscrit đã được nhiều dịch giả như Cưu Ma La Thập, Huyền Trang… dịch sang Hán văn, chứa đựng phần lớn các kinh điển đã được trình bày ở phần trước. Từ lâu đến nay, đã có nhiều bộ sưu tập kinh điển Bắc Tông như sau:

  • I. Bộ 1 (chép tay) sưu tập từ thời Lương Võ Đế, gồm các kinh điển dịch sang Hán văn có sẵn tại Trung Quốc từ năm 67 đến năm 517.
  • II. Bộ 2 (chép tay) sưu tập dưới thời vua Hiếu Võ nhà Nguyên Ngụy, bao gồm các kinh điển cho đến năm 533-534.
  • III. Bộ 3 (chép tay) sưu tập tới năm 594, dưới thời Tùy Văn Đế.
  • IV. Bộ 4 (chép tay) sưu tập đến năm 602, dưới thời Tùy Văn Đế, bao gồm 2109 bộ, thành 5058 quyển.
  • V. Bộ 5 (chép tay) sưu tập đến năm 616 dưới thời Tùy Văn Đế.
  • VI. Năm 644, dưới thời nhà Đường, đã hoàn tất việc lập thư tịch của 2847 bộ, tổng cộng 8476 quyển kinh đã được phiên dịch. Trong số này, có 650 bộ được Ngài Huyền Trang thĩnh từ Ấn Độ về.
  • VII. Bộ 6 (chép tay) hoàn tất năm 695, dưới thời Võ Hậu, với 3616 bộ, tổng cộng 8641 quyển.
  • VIII. Bộ 7 (chép tay) hoàn tất năm 730, dưới thời Đường Huyền Tôn.
  • IX. Bộ 8 (in bằng gỗ) hoàn tất năm 972, dưới thời Tống Thái Tổ. Để in bộ Tam Tạng này, đã cần khắc 130 ngàn bản gỗ, và sau đó in thành bộ Tam Tạng. Vào năm 995, Phật giáo Trung Hoa đã cho Cao Ly (Đại Hàn) thỉnh một bộ Tam Tạng từ bản in này. Phật giáo Cao Ly đã thực hiện khắc và in lại thành bộ Cao Ly bổn.
  • X. Bộ 9 (in) năm 1285-1287 dưới thời Thế Tôn nhà Nguyên.
  • XI. Năm 1306, hoàn tất thư tịch kinh điển (đã soạn từ đời Tống cho đến đời Nguyên).
  • XII. Bộ 10 (in) năm 1368-1398, dưới thời Minh Thái Tổ. Bộ Tam Tạng này được gọi là Đại Minh Nam Kinh Đại Tạng Kinh, do đã được in tại Nam kinh (Nankin).
  • XIII. Bộ 11 (in) năm 1403-1424, dưới thời Minh Thành Tổ. Bộ Tam Tạng này được gọi là Đại Minh Bắc Kinh Đại Tạng Kinh, vì đã được in tại Bắc kinh (Pékin).
  • XIV. Ngài Pháp sư Mật Tạng đã hợp nhất hai bộ trên thành một và lập thư tịch.
  • XV. Bộ 12 (in) năm 1735-1737 dưới thời vua Thế Tôn và Cao Tôn của nhà Thanh.
  • XVI. Bộ 13 (in) năm 1911, Tinh Xá Tần Già ở Thượng Hải đã in lại bộ Súc Loát Tạng Kinh của Nhật Bản, được gọi là Tần Già Bản.
  • XVII. Bộ 14 (in) Thương vụ ấn quán đã in lại Tục Tạng Kinh của Nhật Bản.
  • XVIII. Bộ 15 (in) khoảng từ năm 1931-1936, đã in lại Tống bản Tích Sa tạng kinh và Kim bản Đại Tạng Kinh. Đây là những sự nghiệp vĩ đại của Phật giáo Trung Quốc, được gọi là Tống Tạng Di Trân.
  • Sẽ có lần in thêm bản Đại Tạng Kinh trong tương lai, nhưng tài liệu hiện tại chưa đủ để tham khảo về điều này.

Ngoài Hán Tạng, còn có Tây Tạng Phật điển (Tây Tạng Phật giáo) dịch trực tiếp từ nguyên bản Sanscrit, với sự tinh tế và chính xác, được chia thành hai phần là Cam Thù (Kanjur) và Đan Thù (Tanjur), gồm đủ kinh, luật và luận.

I. Cam Thù

  •    Luật Bộ
  •    Bát Nhã Bộ
  •    Hoa Nghiêm Bộ
  •    Bảo Tích Bộ
  •    Kinh Tập (hơn 200 bộ)
  •    Đại Niết Bàn
  •    Bí Mật Bộ

II. Đan Thù

  •    Tán Ca Tập (gồm 58 bộ)
  •    Bí Mật Nghi Quỹ (hơn 2600 bộ)
  •    Luận Thích Tập (đặc biệt quan trọng vì chứa nhiều sớ thích kinh điển, cũng như các môn học khác như Nhân Minh, Văn Pháp, Âm Nhạc, Toán Số…)

Ở Việt Nam, trước đây, các kinh điển thường được viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, từ những thập kỷ 1930 trở đi, việc phiên âm chữ Việt cho kinh điển bắt đầu xuất hiện, và từ những thập kỷ 1950 trở đi, việc dịch các kinh vào chữ Việt cũng được thực hiện. Có một số dịch giả có tên tuổi như Đoàn Trung Còn, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ…

I. Luật

  •  Luật Sa Di và Sa Di Ni
  •  Luật Sa Di Giải

II. Kinh

  •  Trường A hàm (2 quyển)
  •  Trung A Hàm (4 quyển)
  •  Tạp A Hàm (4 quyển)
  •  Tăng Nhứt A Hàm (3 quyển)
  •  Trường Bộ Kinh (2 quyển)
  •  Trung Bộ Kinh (3 quyển)
  •  Tương Ưng Bộ Kinh (5 quyển)
  •  Tăng Chi Bộ Kinh (4 quyển)
  •  Đại Bát Niết Bàn
  •  Hoa Nghiêm
  •  Pháp Hoa
  •  Thủ Lăng Nghiêm
  •  Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh
  •  Bảo Tích
  •  Vị Tằng Hữu
  •  Giải Thâm Mật
  •  Kinh Hiền Ngu
  •    …

III. Luận

  •  Luận Nhiếp Đại Thừa
  •  Luận Thành Duy Thức
  •  Luận Đại Trí Độ
  •  Luận Đại Thừa Khởi Tín
  •  Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
  •  Đại trí Độ Luận
  •  Trung Quán Luận
  •    …
Xem thêm:  Khám phá tư tưởng Phật giáo về hạnh phúc

Danh sách trên vẫn còn thiếu sót nhiều, nhưng những kinh điển quan trọng đã được dịch, Tiểu Bộ gồm 15 quyển trong Ngũ Bộ Kinh cũng đã được dịch hoàn chỉnh. Vào cuối năm 1999, các tập 1, 2 và 3 đã được in ra. Kết quả của quá trình dịch kinh cho thấy rằng mặc dù chưa có một tổ chức chính thức, công việc dịch các kinh ra tiếng Việt đã được các chư Tăng và cư sĩ thực hiện khá nhiều và đầy đủ.

Trong xu hướng phát triển khoa học, Đại Tạng Kinh Pali ở Tích Lan và Thái Lan đã được chuyển vào đĩa CD-ROM. Tương tự, Hán Tạng cũng đã được một hãng điện tử Nhật Bản tài trợ để chuyển vào đĩa CD-ROM.

Theo ngài Phật Âm (hoặc Phật Minh), có bảy cách phân loại thánh điển:

  • Hương Vị: Trong Tăng Nhứt Bộ Kinh, Trung A Hàm, và Tăng Nhứt A Hàm, lời dạy của Phật ghi chép: “Như nước biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp và giới luật của Phật cũng chỉ có một hương vị duy nhất, đó là hương vị giải thoát.”
  • Pháp và Luật: Những lời dạy của Phật bao gồm giáo lý được gọi là “Pháp”, và các quy tắc hành trì mà người tu sĩ phải tuân theo được gọi là “Luật”.
  • Ba Phần Pháp Âm: Trong Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Nhứt Bộ và Tạp Bộ, có ghi chép về ba phần pháp âm: đầu, giữa và cuối. Cũng có ghi trong tạng Luật như sau: “Pháp Phật giảng dạy thuần thiện trong cả phần mở đầu, phần giữa và phần cuối. Pháp này tốt đẹp cả về ý nghĩa và lời văn. Toàn bộ pháp âm đồng nhất, viên mãn và trong suốt, thể hiện trọn vẹn phạm hạnh thanh tịnh.
  • Năm Bộ Kinh: Theo bi ký ở Sanci và Bharhut, Năm Bộ Kinh chỉ đề cập đến toàn bộ lời dạy của Phật. Tuy nhiên, theo ngài Phật Âm, Năm Bộ Kinh là Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Nhứt Bộ và Tạp Bộ. Trong Tạp Bộ còn chứa cả Tiểu Bộ, tạng Luật và A Tỳ Đàm.
  • Chín Bộ Loại: Trong Giáo Điển Nam Phương, chín loại kinh được phân loại như sau:
    •  Khế Kinh
    • Ưng Tụng hoặc Trùng Tụng
    •  Cô Khởi
    •  Tự Thuyết
    •  Bản Sự
    •  Bản Sanh
    •  Vị Tằng Hữu
    •  Vệ Đà La
    •  Vê Da
  • 84,000 Pháp Uẩn: Một số cao tăng cho rằng có đến 84 ngàn phương cách để giải quyết phiền não của chúng sanh, và do đó, Phật đã dạy 84 ngàn pháp môn để giải quyết. Tuy nhiên, đây chỉ là một số ước tính, vì trong suốt 45 năm dạy pháp, mỗi ngày Phật không thể dạy trên 5 pháp môn để giải quyết phiền não được.
  • Tam Tạng là khái niệm chỉ ba kho chứa chính của Phật giáo, bao gồm Kinh, Luật và Luận. Trong đó, Phật chỉ dạy Kinh và Luật, còn Luận được các Thánh Tăng hệ thống hóa thành cơ sở triết lý. Luận chỉ bắt đầu hình thành trong kỳ Kiết Tập lần thứ ba với tác phẩm “Thuyết Sự” do ngài Đế Tử Tu trước tác.

Theo ngài Trí Khải của Thiên Thai Tông ở Trung Quốc, Kinh điển Phật được chia thành 5 thời:

  • Thời thứ nhất: Sau khi Phật đắc đạo, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề giảng Kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên nghe.
  • Thời kỳ thứ hai: Thấy lời dạy của mình không được hiểu, Phật đến Vườn Nai, giảng Kinh Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên cho nhóm ông Kiều Trần Như nghe. Những lời dạy trong thời gian này được ghi vào Kinh A Hàm, nên gọi là thời A Hàm, kéo dài 12 năm.
  • Thời kỳ thứ ba: Giáo lý của Phật đã lan rộng trong dân gian, nhưng bị các ngoại đạo và các phái triết khác công kích. Do đó, Phật giảng dạy cho đệ tử về các giảng minh và giải đáp. Những lời dạy trong thời kỳ này được ghi trong Kinh Duy Ma và Đại Tập, kéo dài trong 8 năm, được gọi là thời Phương Đẳng.
  • Thời thứ tư: Vì sự công kích của các ngoại đạo và các phái triết với những triết thuyết cao siêu, Phật phải giảng về các nguyên lý tương tự của vũ trụ. Đây là thời kỳ Kinh Bát Nhã, kéo dài trong 22 năm.
  • Thời kỳ thứ năm: Phật giáo vượt qua các học thuyết đương thời, và Phật bắt đầu giảng về lý tưởng của Bồ Tát đạo và Nhất Thừa Phật Giáo cho đệ tử. Thời kỳ này là thời Pháp Hoa, kéo dài trong 8 năm, và cuối cùng, Phật giảng về Niết Bàn trước khi tịch diệt.

Từ thế kỷ thứ VIII, quân Hồi liên tục xâm lược Ấn Độ, phá hủy chùa chiền và hành hạ các Tăng và Ni. Cho đến năm 1203, quân Hồi thực hiện cuộc tấn công cuối cùng vào Ấn Độ, hoàn thành cuộc xâm lược đất nước này và diệt vong đạo Phật ngay tại quê hương của Đức Phật. Do đó, không còn những Thánh Tăng sáng tác kinh và luận để truyền bá Phật giáo, và hầu hết các Tam Tạng kinh điển viết bằng Sanskrit cũng không còn tồn tại.

Liệt kê những Kinh Sách như đã nêu, ta có thể thấy rằng Kinh điển nguyên thủy của Nam Tông và Bắc Tông không khác biệt quá nhiều. Sự khác biệt chủ yếu nằm ở những kinh do Thánh Tăng Ấn Độ sáng tác, mang lại cho Phật Giáo Bắc Tông nhiều kinh điển hơn. Tất cả điều này nhằm vì lợi ích của chúng sinh, đề cao lý tưởng Bồ Tát Đạo và quy nguyên Nhất Thừa Phật Giáo.

Một điều quan trọng cần nhắc lại là lời dạy của Phật trong kinh Kim Cang: “Tu Bồ Đề! Đừng nghĩ rằng Như Lai có thuyết pháp. Tại sao vậy? Nếu người ta nói: Như Lai có thuyết pháp, tức là phỉ báng Phật, vì không thể hiểu nổi những lời ta nói. Tu Bồ Đề! Thuyết pháp không phải là thực tế để thuyết. Tạm gọi là thuyết pháp.”

Và trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Phật đã dạy: “Từ đêm ấy, ta đã tiếp tục đạt được sự giác ngộ tối cao, cho đến đêm ấy khi ta tiến vào trạng thái Niết Bàn, trong khoảng thời gian ấy, ta không nói một chữ, cũng chẳng đã nói và sẽ không nói.

Sách tham khảo :

  • HT Thích Thanh Kiểm Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ ,Vạn Hạnh, Sài Gòn, Việt Nam, 1963
  • HT Thích Thanh Từ Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Tu Viện Chơn Không, Việt Nam, 1989
  • HT Thích Thiền Tâm Phật Học Tinh Yếu, Việt Nam, 1999
  • Nguyễn Duy Cần Phật Học Tinh Hoa, tái bản lần I, Hồng Ân, Việt Nam, 1996
  • Cao Hữu Đính Văn Học Sử Phật Giáo, Tập 1, Hương Sen, Việt Nam, 1996
  • Nhiều tác giả Phật Học Cơ Bản Việt Nam, 1999
  • Kinh Nhật Tụng, Kinh Kim Cang, Việt Nam, 1992
5/5 - (2 bình chọn)

Ý kiến về bài viết Kinh Điển Phật Giáo – Giáo Lý Căn Bản

Scroll to Top